cM¼„oл³ÙÂЛ®laÁÄ��Û˜º‡Õã\¨›‘(‡ù>õâuºÍø_ü?mÜÎ÷ÒáÁojÓ}ß®T¯a§»®)šUeÿRö«;×>Í8†•ZùW}§‚³c;«ûUÛ7…1t·U[ôjµmS´f8�Ã߇Ñ|~ ª²\Õ¥‚ó´:…5Êÿëdü—ê»rø
ï¹ßÇX�åTÏ�xSÖ0[{Ä›¢VãWö8k
§«Û4M[”¥Âõ²c¬Tã(Ç!VÊ´ðcüç‰ÿg¥ëáðâø3{ŒâbÂÀÎõ«ø-%(Ùh¬¬¨»°QÏ*�¹Xnè¸[YTM]
\K�‹Z¿b© NQU_ž+Ý(8]U; o©¯ÙÀàð90Ŷ¨›ª·Nµî+Ç ÚNwp<íù~§� ¶K®*m-¼²êìË0jcúõköžíõúÔ>늷zÎRyWµv Û¶ Æ©,ÿ€…«jÕÀ«Œô»‘ôMG4Ð~Î=½ÑÀÖÛoô]›h#ý�c ²§x§çï$Æo'ç6ÎSZàK}[ÍÚ‰¾“AÝ’PC‹e?.šv83«QÐwÀ€œ‡··•n½ÚÚo-›?´£ík½þÕk”
�¡”%H§8üdÞ1ŠÈm[º¬û~ý®¥Ïªjº¶†Q”E×ôpš×é
öò/7
Ðz:xŽB
G´Y¿ÍŸSc¿ƒ3
"²¬×´ŒbýßðG8‹ð˜µÊºý?âãú¯`0¾-78W¬�åµug5œ¦mß
,½¶‡tœ<{ûƒ�°ŒuÑzýë
aaÚ_GÚÖèe˘…v{ ×®°ÝA»+PElrµþ½0BøQú�þ;¡%måÈ|§WÕ”bkHß´’A"ÿÔwÌZV]0Fœqd�µkÚ’¨±4BSÊM©Ì
ù,\©€l8�¾Ckð;‘¬#g€ÿ9ræzCÄò÷éð¤vè÷ú�M§Ô¼m¬‚?öñ³DÄó³Ú ÞHxJ]t-0•ÖŽÛ©� �רàÌ«« ™ÔßħV�‚ƒ¹Ë'ÂÓÝ¿Øq þ2ˆÖúÇ°t –¾|gPzÕ÷ìû7†F
h
éý«¯[ë@W, —éçk¶UPÆÏÁ¢0ôœ¨UάüòÐPÜŠ2nœRÜ&,( ¥¦ký®åìPÕ�Ö…Òe¯½²3ÌÖj(ºïí‹AãhÁÀqÒi0e.àd_e¿p®/†�šÃ7çi²èÕÄ9>‡¿.à
¸6AIµ‹c®A„«!èÇUià~ÕhʆÛÓÛêË«Ã÷ÿéʺ²j[[ƒÙV7亷ÁÃÄ™´ªY0>½ìž2ÌGϧÎÏ¿¥§–áyÞt¡3ï_nP”_±ª&hÃ}eUEâÉ8=UtØîè’FõµáìïÁ¦)Ëy°.È ¿'MµgÃÅÆ>Û(Ø9Ó4ëãÑ]ø1.êÍÍÀRMÅfx†ïÝ”ç
Ælãòýù@¹²>µm™¦ªˆ½±†¶ ÀÜÆ%±ÍºæJ¾
fŠ®DÖf
l²é›n}om–`¬ïlêºvs`öl.Øå(»®^ÿP¤5=�¸_Ô-S|ˆ¸Ð—G
aJÍ›=Ã]ºŠ½>Ü(ø¾kÛ@9`�Âf÷^i9'uÚà´¿ÜTp~Á`£N
›à׬«-Èl’^Ÿã_oʳ¶H‡?rÏÍÀ©ô>N�ÍúsüãýpþuÙX6¨ùBEƤ+úß–…ì°UÇgý ;x„#‰¬ÿ¶2Õ ¿ZyäXÿ9üü�¾H!¹ÂfrÌ×l˜JƒéJ�oà:3fÁ·¡"•óü|Ê5ãmW9Mû®>FòØÂe¦4Àû�8í̇w,�î}öæyÐ-hòK¤ÃOzcŠ¦*[Ø0áä)DÛÖ¯,blx÷�+3j‡l…®ów–Éý'®·xˆ
¶Tì Td¶/Î;`Ú=¾�(S‘óÐã2kù4ðÑ=:ÂßV½²¼y;šÃ7 ú×µÑ1R®zàçe”ÀæÂÙþxy9Ïæ#š¬\iõ÷ö¹»UUÓ‚ì˜<(úÄã‘Ìí€
èÝúZdw«ÈŒã}A8fB›Ç_[¿ƒb28Œîé=”1ž‹GCÚPyÑnÃp»òû
X)@–&Ö“êâl4¤u{‚F¹ï§q‚ôϹ¨úçq…:Ðj7°¬ªiÕ‚ŒA*Ù�‚g¢s à¾
˜u’‚Ug›é˜¤dL‚äó_ðñ™ôµ4®Gô 5ùŸŒ "d^ZPªœÊš×$2çG‚�æ¶0Õ/ˆdC©ë¾ù$Cê"kL“‹ãX¬ƒ‹`æsZš=Ýt¢¶ÆølžÌšõ”¤ÊÌã¼p %PDF-1.4
%öäüß
1 0 obj
<<
/Type /Catalog
/Version /1.4
/Pages 2 0 R
>>
endobj
2 0 obj
<<
/Type /Pages
/Kids [3 0 R 4 0 R 5 0 R 6 0 R 7 0 R 8 0 R]
/Count 6
>>
endobj
3 0 obj
<<
/Type /Page
/MediaBox [0 0 612 792]
/Rotate 0
/Parent 2 0 R
/Resources 9 0 R
/Contents 10 0 R
>>
endobj
4 0 obj
<<
/Type /Page
/MediaBox [0 0 612 792]
/Rotate 0
/Parent 2 0 R
/Resources 11 0 R
/Contents 12 0 R
>>
endobj
5 0 obj
<<
/Type /Page
/MediaBox [0 0 612 792]
/Rotate 0
/Parent 2 0 R
/Resources 13 0 R
/Contents 14 0 R
>>
endobj
6 0 obj
<<
/Type /Page
/MediaBox [0 0 612 792]
/Rotate 0
/Parent 2 0 R
/Resources 15 0 R
/Contents 16 0 R
>>
endobj
7 0 obj
<<
/Type /Page
/MediaBox [0 0 612 792]
/Rotate 0
/Parent 2 0 R
/Resources 17 0 R
/Contents 18 0 R
>>
endobj
8 0 obj
<<
/Type /Page
/MediaBox [0 0 612 792]
/Rotate 0
/Parent 2 0 R
/Resources 19 0 R
/Contents 20 0 R
>>
endobj
9 0 obj
<<
/ProcSet [/PDF /Text]
/Font 21 0 R
>>
endobj
10 0 obj
<<
/Length 22 0 R
/Filter /FlateDecode
>>
stream
xœÅ][“ÝÆq.[”D¯R²hY.+e['ŽŸ“ÒA€Á (O´Ä’],›k;.ÊÔ’â2Ú]R¼Uø;œ”çü
RzsQORü–`¦»èÁÌ9d*¥RÕá˜kO_¾¾Ì竲PzUÚÿü�£Óƒrõ.üãàó]TmÛvÃþûètõ‹ÃƒþYõEÝ—‡ŸTÓjÕ뢯újÕUUaàÉéÁú[›Ã‡·«’½Þ¥íððÚÁúûø>Q†7V•]¡ºž5vZƒ· ™~ýí�*ú¶4
üªê¢é{O·}¡KUVëç6u¡TÙöâ9÷K¯ŸÇ¿½°Ùv…®ºN_ÄOÎããïØÇm×itèÑpä_8œ«®+Lþtø¯Ã"Ó²”j\³+0¹.´nµ�9mË¢1UgÌŠ~³W^€yU¦×vQÚ¶óÏ^ÜlMÑõ½nØ«çím×(S³¿Âr¨B÷uݬ?>cM¼„oл³ÙÂЛ®laÁÄ��Û˜º‡Õã\¨›‘(‡ù>õâuºÍø_ü?mÜÎ÷ÒáÁojÓ}ß®T¯a§»®)šUeÿRö«;×>Í8†•ZùW}§‚³c;«ûUÛ7…1t·U[ôjµmS´f8�Ã߇Ñ|~ ª²\Õ¥‚ó´:…5Êÿëdü—ê»rø
ï¹ßÇX�åTÏ�xSÖ0[{Ä›¢VãWö8k
§«Û4M[”¥Âõ²c¬Tã(Ç!VÊ´ðcüç‰ÿg¥ëáðâø3{ŒâbÂÀÎõ«ø-%(Ùh¬¬¨»°QÏ*�¹Xnè¸[YTM]
\K�‹Z¿b© NQU_ž+Ý(8]U; o©¯ÙÀàð90Ŷ¨›ª·Nµî+Ç ÚNwp<íù~§� ¶K®*m-¼²êìË0jcúõköžíõúÔ>늷zÎRyWµv Û¶ Æ©,ÿ€…«jÕÀ«Œô»‘ôMG4Ð~Î=½ÑÀÖÛoô]›h#ý�c ²§x§çï$Æo'ç6ÎSZàK}[ÍÚ‰¾“AÝ’PC‹e?.šv83«QÐwÀ€œ‡··•n½ÚÚo-›?´£ík½þÕk”
�¡”%H§8üdÞ1ŠÈm[º¬û~ý®¥Ïªjº¶†Q”E×ôpš×é
öò/7
Ðz:xŽB
G´Y¿ÍŸSc¿ƒ3
"²¬×´ŒbýßðG8‹ð˜µÊºý?âãú¯`0¾-78W¬�åµug5œ¦mß
,½¶‡tœ<{ûƒ�°ŒuÑzýë
aaÚ_GÚÖèe˘…v{ ×®°ÝA»+PElrµþ½0BøQú�þ;¡%måÈ|§WÕ”bkHß´’A"ÿÔwÌZV]0Fœqd�µkÚ’¨±4BSÊM©Ì
ù,\©€l8�¾Ckð;‘¬#g€ÿ9ræzCÄò÷éð¤vè÷ú�M§Ô¼m¬‚?öñ³DÄó³Ú ÞHxJ]t-0•ÖŽÛ©� �רàÌ«« ™ÔßħV�‚ƒ¹Ë'ÂÓÝ¿Øq þ2ˆÖúÇ°t –¾|gPzÕ÷ìû7†F
h
éý«¯[ë@W, —éçk¶UPÆÏÁ¢0ôœ¨UάüòÐPÜŠ2nœRÜ&,( ¥¦ký®åìPÕ�Ö…Òe¯½²3ÌÖj(ºïí‹AãhÁÀqÒi0e.àd_e¿p®/†�šÃ7çi²èÕÄ9>‡¿.à
¸6AIµ‹c®A„«!èÇUià~ÕhʆÛÓÛêË«Ã÷ÿéʺ²j[[ƒÙV7亷ÁÃÄ™´ªY0>½ìž2ÌGϧÎÏ¿¥§–áyÞt¡3ï_nP”_±ª&hÃ}eUEâÉ8=UtØîè’FõµáìïÁ¦)Ëy°.È ¿'MµgÃÅÆ>Û(Ø9Ó4ëãÑ]ø1.êÍÍÀRMÅfx†ïÝ”ç
Ælãòýù@¹²>µm™¦ªˆ½±†¶ ÀÜÆ%±ÍºæJ¾
fŠ®DÖf
l²é›n}om–`¬ïlêºvs`öl.Øå(»®^ÿP¤5=�¸_Ô-S|ˆ¸Ð—G
aJÍ›=Ã]ºŠ½>Ü(ø¾kÛ@9`�Âf÷^i9'uÚà´¿ÜTp~Á`£N
›à׬«-Èl’^Ÿã_oʳ¶H‡?rÏÍÀ©ô>N�ÍúsüãýpþuÙX6¨ùBEƤ+úß–…ì°UÇgý ;x„#‰¬ÿ¶2Õ ¿ZyäXÿ9üü�¾H!¹ÂfrÌ×l˜JƒéJ�oà:3fÁ·¡"•óü|Ê5ãmW9Mû®>FòØÂe¦4Àû�8í̇w,�î}öæyÐ-hòK¤ÃOzcŠ¦*[Ø0áä)DÛÖ¯,blx÷�+3j‡l…®ów–Éý'®·xˆ
¶Tì Td¶/Î;`Ú=¾�(S‘óÐã2kù4ðÑ=:ÂßV½²¼y;šÃ7 ú×µÑ1R®zàçe”ÀæÂÙþxy9Ïæ#š¬\iõ÷ö¹»UUÓ‚ì˜<(úÄã‘Ìí€
èÝúZdw«ÈŒã}A8fB›Ç_[¿ƒb28Œîé=”1ž‹GCÚPyÑnÃp»òû
X)@–&Ö“êâl4¤u{‚F¹ï§q‚ôϹ¨úçq…:Ðj7°¬ªiÕ‚ŒA*Ù�‚g¢s à¾
˜u’‚Ug›é˜¤dL‚äó_ðñ™ôµ4®Gô 5ùŸŒ "d^ZPªœÊš×$2çG‚�æ¶0Õ/ˆdC©ë¾ù$Cê"kL“‹ãX¬ƒ‹`æsZš=Ýt¢¶ÆølžÌšõ”¤ÊÌã¼p %PDF-1.4
%öäüß
1 0 obj
<<
/Type /Catalog
/Version /1.4
/Pages 2 0 R
>>
endobj
2 0 obj
<<
/Type /Pages
/Kids [3 0 R 4 0 R 5 0 R 6 0 R 7 0 R 8 0 R]
/Count 6
>>
endobj
3 0 obj
<<
/Type /Page
/MediaBox [0 0 612 792]
/Rotate 0
/Parent 2 0 R
/Resources 9 0 R
/Contents 10 0 R
>>
endobj
4 0 obj
<<
/Type /Page
/MediaBox [0 0 612 792]
/Rotate 0
/Parent 2 0 R
/Resources 11 0 R
/Contents 12 0 R
>>
endobj
5 0 obj
<<
/Type /Page
/MediaBox [0 0 612 792]
/Rotate 0
/Parent 2 0 R
/Resources 13 0 R
/Contents 14 0 R
>>
endobj
6 0 obj
<<
/Type /Page
/MediaBox [0 0 612 792]
/Rotate 0
/Parent 2 0 R
/Resources 15 0 R
/Contents 16 0 R
>>
endobj
7 0 obj
<<
/Type /Page
/MediaBox [0 0 612 792]
/Rotate 0
/Parent 2 0 R
/Resources 17 0 R
/Contents 18 0 R
>>
endobj
8 0 obj
<<
/Type /Page
/MediaBox [0 0 612 792]
/Rotate 0
/Parent 2 0 R
/Resources 19 0 R
/Contents 20 0 R
>>
endobj
9 0 obj
<<
/ProcSet [/PDF /Text]
/Font 21 0 R
>>
endobj
10 0 obj
<<
/Length 22 0 R
/Filter /FlateDecode
>>
stream
xœÅ][“ÝÆq.[”D¯R²hY.+e['ŽŸ“ÒA€Á (O´Ä’],›k;.ÊÔ’â2Ú]R¼Uø;œ”çü
RzsQORü–`¦»èÁÌ9d*¥RÕá˜kO_¾¾Ì竲PzUÚÿü�£Óƒrõ.üãàó]TmÛvÃþûètõ‹ÃƒþYõEÝ—‡ŸTÓjÕ뢯újÕUUaàÉéÁú[›Ã‡·«’½Þ¥íððÚÁúûø>Q†7V•]¡ºž5vZƒ· ™~ýí�*ú¶4
üªê¢é{O·}¡KUVëç6u¡TÙöâ9÷K¯ŸÇ¿½°Ùv…®ºN_ÄOÎããïØÇm×itèÑpä_8œ«®+Lþtø¯Ã"Ó²”j\³+0¹.´nµ�9mË¢1UgÌŠ~³W^€yU¦×vQÚ¶óÏ^ÜlMÑõ½nØ«çím×(S³¿Âr¨B÷uݬ?>cM¼„oл³ÙÂЛ®laÁÄ��Û˜º‡Õã\¨›‘(‡ù>õâuºÍø_ü?mÜÎ÷ÒáÁojÓ}ß®T¯a§»®)šUeÿRö«;×>Í8†•ZùW}§‚³c;«ûUÛ7…1t·U[ôjµmS´f8�Ã߇Ñ|~ ª²\Õ¥‚ó´:…5Êÿëdü—ê»rø
ï¹ßÇX�åTÏ�xSÖ0[{Ä›¢VãWö8k
§«Û4M[”¥Âõ²c¬Tã(Ç!VÊ´ðcüç‰ÿg¥ëáðâø3{ŒâbÂÀÎõ«ø-%(Ùh¬¬¨»°QÏ*�¹Xnè¸[YTM]
\K�‹Z¿b© NQU_ž+Ý(8]U; o©¯ÙÀàð90Ŷ¨›ª·Nµî+Ç ÚNwp<íù~§� ¶K®*m-¼²êìË0jcúõköžíõúÔ>늷zÎRyWµv Û¶ Æ©,ÿ€…«jÕÀ«Œô»‘ôMG4Ð~Î=½ÑÀÖÛoô]›h#ý�c ²§x§çï$Æo'ç6ÎSZàK}[ÍÚ‰¾“AÝ’PC‹e?.šv83«QÐwÀ€œ‡··•n½ÚÚo-›?´£ík½þÕk”
�¡”%H§8üdÞ1ŠÈm[º¬û~ý®¥Ïªjº¶†Q”E×ôpš×é
öò/7
Ðz:xŽB
G´Y¿ÍŸSc¿ƒ3
"²¬×´ŒbýßðG8‹ð˜µÊºý?âãú¯`0¾-78W¬�åµug5œ¦mß
,½¶‡tœ<{ûƒ�°ŒuÑzýë
aaÚ_GÚÖèe˘…v{ ×®°ÝA»+PElrµþ½0BøQú�þ;¡%måÈ|§WÕ”bkHß´’A"ÿÔwÌZV]0Fœqd�µkÚ’¨±4BSÊM©Ì
ù,\©€l8�¾Ckð;‘¬#g€ÿ9ræzCÄò÷éð¤vè÷ú�M§Ô¼m¬‚?öñ³DÄó³Ú ÞHxJ]t-0•ÖŽÛ©� �רàÌ«« ™ÔßħV�‚ƒ¹Ë'ÂÓÝ¿Øq þ2ˆÖúÇ°t –¾|gPzÕ÷ìû7†F
h
éý«¯[ë@W, —éçk¶UPÆÏÁ¢0ôœ¨UάüòÐPÜŠ2nœRÜ&,( ¥¦ký®åìPÕ�Ö…Òe¯½²3ÌÖj(ºïí‹AãhÁÀqÒi0e.àd_e¿p®/†�šÃ7çi²èÕÄ9>‡¿.à
¸6AIµ‹c®A„«!èÇUià~ÕhʆÛÓÛêË«Ã÷ÿéʺ²j[[ƒÙV7亷ÁÃÄ™´ªY0>½ìž2ÌGϧÎÏ¿¥§–áyÞt¡3ï_nP”_±ª&hÃ}eUEâÉ8=UtØîè’FõµáìïÁ¦)Ëy°.È ¿'MµgÃÅÆ>Û(Ø9Ó4ëãÑ]ø1.êÍÍÀRMÅfx†ïÝ”ç
Ælãòýù@¹²>µm™¦ªˆ½±†¶ ÀÜÆ%±ÍºæJ¾
fŠ®DÖf
l²é›n}om–`¬ïlêºvs`öl.Øå(»®^ÿP¤5=�¸_Ô-S|ˆ¸Ð—G
aJÍ›=Ã]ºŠ½>Ü(ø¾kÛ@9`�Âf÷^i9'uÚà´¿ÜTp~Á`£N
›à׬«-Èl’^Ÿã_oʳ¶H‡?rÏÍÀ©ô>N�ÍúsüãýpþuÙX6¨ùBEƤ+úß–…ì°UÇgý ;x„#‰¬ÿ¶2Õ ¿ZyäXÿ9üü�¾H!¹ÂfrÌ×l˜JƒéJ�oà:3fÁ·¡"•óü|Ê5ãmW9Mû®>FòØÂe¦4Àû�8í̇w,�î}öæyÐ-hòK¤ÃOzcŠ¦*[Ø0áä)DÛÖ¯,blx÷�+3j‡l…®ów–Éý'®·xˆ
¶Tì Td¶/Î;`Ú=¾�(S‘óÐã2kù4ðÑ=:ÂßV½²¼y;šÃ7 ú×µÑ1R®zàçe”ÀæÂÙþxy9Ïæ#š¬\iõ÷ö¹»UUÓ‚ì˜<(úÄã‘Ìí€
èÝúZdw«ÈŒã}A8fB›Ç_[¿ƒb28Œîé=”1ž‹GCÚPyÑnÃp»òû
X)@–&Ö“êâl4¤u{‚F¹ï§q‚ôϹ¨úçq…:Ðj7°¬ªiÕ‚ŒA*Ù�‚g¢s à¾
˜u’‚Ug›é˜¤dL‚äó_ðñ™ôµ4®Gô 5ùŸŒ "d^ZPªœÊš×$2çG‚�æ¶0Õ/ˆdC©ë¾ù$Cê"kL“‹ãX¬ƒ‹`æsZš=Ýt¢¶ÆølžÌšõ”¤ÊÌã¼p Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng mạnh hiện nay, giao lưu văn hóa giữ Việt Nam với các nước trên thế giới cũng ngày càng sôi động. Giao lưu văn hóa là quá trình tiếp xúc, trao đổi và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các nền văn hóa, giữa các cộng đồng văn hóa khác nhau với những phương thức sống và thế giới quan khác nhau. Nếu hiểu văn hóa là một hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do nhân loại tạo ra thì giao lưu văn hóa chính là quá trình thúc đẩy sự biến đổi giá trị đó. Với nghĩa như vậy thì giao lưu văn hoá không phải là một hiện tượng mới mẻ, mà đã trải qua lịch sử từ lâu đời gắn liền với số phận của tất cả các dân tộc, các cộng đồng người trên thế giới. Tuy nhiên, ở mỗi thời kỳ, giao lưu văn hóa có những đặc điểm, những dấu ấn riêng. Bài viết này chỉ đề cập đến một số vấn đề giao lưu văn hóa trong thời kỳ hội nhập của nước ta hiện nay. 1. Nhận thức về giao lưu văn hoá Sở dĩ đặt ra vấn đề này là vì, trong khi giao lưu văn hóa vẫn diễn ra theo dòng chảy của lịch sử, thì sự nhận thức về nó của các chủ thể tham gia cũng như các chủ thể quản lý quá trình giao lưu ấy đôi khi lại không được định hình một cách rõ ràng. Trên thực tế, nhiều khi chính những người tham gia các hoạt động giao lưu văn hóa không ý thức được rằng, những hoạt động mà họ tiến hành lại là giao lưu văn hóa. Những hoạt động phổ biến những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc mình ra thế giới hoặc những hoạt động quảng bá và tiếp nhận những giá trị văn hóa từ các nước khác trên thế giới vào nước ta đều là những yếu tố trong quá trình giao lưu văn hoá. Hay nói cách khác, giao lưu văn hóa là quá trình tiếp xúc để "cho" và "nhận" những giá trị văn hóa. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là những tinh hoa văn hoá của các dân tộc khác trên thế giới mà chúng ta cần tiếp nhận. Nếu như các chủ thể lãnh đạo và quản lý văn hoá không giải quyết tốt vấn đề này và phổ biến rộng rãi đến các chủ thể tham gia các hoạt động văn hóa thì giao lưu văn hóa vẫn còn mang tính tự phát, những kết quả của sự giao lưu đó vẫn còn hỗn độn. Nhìn vào thực tế văn hóa sau gần một thế kỷ, với các đặc điểm riêng mang tính lịch sử, phải nói rằng trong đời sống văn hóa của xã hội Việt Nam đã có sự hiện diện của không ít giá trị có tính chất thực hành, các hành vi văn hóa vốn có nguồn gốc khác nhau từ Trung Hoa, Ấn Độ tới Pháp, Nga, Mỹ… cùng với thời gian, sự hiện diện ấy ngày càng được tăng cường bởi sự mở rộng hợp tác quốc tế cùng sự lan toả với cường độ cao của văn hóa - văn minh thông qua các phương tiện thông tin đại chúng trên phạm vi toàn cầu. Trong thời kỳ hội nhập, các phương tiện truyền thông hiện đại trở nên phổ biến, những điều kiện cho các giá trị văn hóa thẩm thấu vào các tầng lớp dân cư hết sức nhanh chóng. Những giá trị văn hóa đó là hết sức đa dạng và phong phú. Cũng từ đó mà có sự thay đổi trong cách nhìn nhận về các chuẩn mực giá trị. Các thang giá trị dân tộc - quốc tế, truyền thông - hiện đại, cá nhân - cộng đồng có nhiều đổi mới. Có những giá trị mới ra đời chưa hẳn đã là đúng, có những giá trị cũ chưa hẳn đã lạc hậu. Do đó, trong nhận thức về giao lưu văn hóa, cần xác định cho rõ những chuẩn mực giá trị mới phù hợp với mục tiêu phát triển văn hóa và nhân cách Việt Nam . Đó là những giá trị gắn liền với mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; những giá trị gắn với sự phát triển đa dạng và toàn diện nhân cách; những giá trị gắn với chân, thiện, mỹ; những giá trị gắn với tính hữu ích và hiệu quả đối với cộng đồng và xã hội, đối với cuộc sống của con người.Trên cơ sở những hệ giá trị đó để có tư duy định hướng tiếp nhận hoặc phổ biến, quảng bá những giá trị cụ thể của các sản phẩm văn hóa vật thể và phi vật thể. 2. Vấn đề quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động giao lưu văn hóa Với cái nhìn biện chứng về sự phát triển bền vững, chúng ta khẳng định phát triển kinh tế để làm cho dân giàu, nước mạnh phải đi cùng với phát triển văn hóa, với tinh thần dân chủ và công bằng xã hội… Vấn đề là ở chỗ, phải làm cho tinh thần đó được thấu triệt trong toàn dân, giúp toàn dân nhận thức được rằng bất kỳ một sự sai lệch nào xảy ra giữa các lĩnh vực hoạt động xã hội cũng đều có thể đưa lại hậu quả nguy hại, hậu quả đó có thể nhận diện trực tiếp cũng có thể sau một vài thế hệ mới lộ diện và cái giá phải trả là sẽ không lường. Hướng ra thế giới để học hỏi, làm cho tinh thần dân tộc giàu có hơn, mạnh mẽ hơn chứ không phải để làm suy giảm, thậm chí đánh mất các thành tố văn hóa đã làm nên truyền thống và lòng tự tôn dân tộc. Với ý nghĩa đó, vấn đề quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động giao lưu văn hoá được đặt ra trong bối cảnh hiện nay là hết sức cấp thiết. Hiện nay, cơ quan quản lý nhà nước cao nhất về hoạt động giao lưu văn hóa là Cục Hợp tác quốc tế của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch. Cơ quan này có chức năng giúp bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước về quan hệ hợp tác và hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực văn hoá, gia đình, thể thao và du lịch; được bộ trưởng giao trách nhiệm quản lý và hướng dẫn hoạt động hợp tác, giao lưu và hội nhập quốc tế về văn hóa, gia đình, thể thao và xúc tiến du lịch theo đường lối đối ngoại của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Theo Quyết định số 23/2008 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Cục Hợp tác quốc tế được quy định rõ các nhiệm vụ về quản lý các hoạt động giao lưu văn hóa, từ dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật, xây dựng chương trình, chiến lược, kế hoạch, điều phối, tổ chức, theo dõi, hướng dẫn, giám sát, kiểm tra các hoạt động giao lưu văn hóa, đến tổ chức sản xuất và chịu trách nhiệm về nội dung đối với các loại sản phẩm văn hoá, thông tin đối ngoại phục vụ công tác giới thiệu, quảng bá hình ảnh Việt Nam. Dưới Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là các sở, ban tương ứng ở các tỉnh, thành phố, huyện, xã, phường. Ngoài cơ quan quản lý chuyên trách là Cục Hợp tác quốc tế của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, thì vai trò của Vụ Văn hóa đối ngoại và UNESCO của Bộ Ngoại giao cũng rất quan trọng đối với việc thúc đẩy hoạt động giao lưu văn hóa. Theo Chỉ thị số 4252/2008/CT-BNG ngày 23-12-2008 thì cơ quan này có những nhiệm vụ sau: xây dựng kế hoạch hợp tác hàng năm về công tác ngoại giao văn hoá; xây dựng mẫu đăng ký kế hoạch hoạt động ngoại giao văn hóa gửi các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài; đồng thời thường xuyên hướng dẫn và đôn đốc các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài thực hiện công tác ngoại giao văn hoá; xây dựng đề án trình Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Quỹ "Hỗ trợ các hoạt động ngoại giao văn hóa"; xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ Đề án "Quy chế về tổ chức tuần/ngày Việt Nam ở nước ngoài", trong đó phân định rõ nội dung công việc, trách nhiệm, quyền hạn và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan liên quan; Đề án "Quy chế bổ nhiệm hoặc chấp thuận danh nhân nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài làm Đại sứ Thiện chí - Văn hóa Việt Nam"; đề xuất và thực hiện một số hoạt động văn hóa song phương và đa phương như tổ chức hội nghị, hội thảo quốc gia, khu vực và quốc tế, tiến hành trao đổi kinh nghiệm hoạt động ngoại giao văn hoá với một số nước tiêu biểu nhằm nâng cao nhận thức về ngoại giao văn hóa và trao đổi một số nội dung về văn hóa; nghiên cứu một số vấn đề tài liên quan đến ngoại giao văn hóa; biên soạn sách về ngoại giao văn hóa, kinh nghiệm ngoại giao văn hóa của một số nước, cẩm nang hướng dẫn thực hiện công tác ngoại giao văn hóa; đẩy mạnh việc hỗ trợ nghiên cứu về Việt Nam, xây dựng và tổ chức các khóa "Tìm hiểu văn hóa Việt Nam" cho các nhà ngoại giao trẻ của các nước đối tác quan trọng, tổ chức các hội thảo về Việt Nam. Tuy nhiên, đối chiếu giữa chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước về văn hoá nói chung và giao lưu văn hóa nói riêng vẫn còn nổi lên rất nhiều vấn đề cần giải quyết. Nhiều nhà nghiên cứu đã căn cứ vào thực tiễn những năm gần đây cho rằng, chúng ta vẫn chưa có một chiến lược về giao lưu văn hóa. Chủ trương của Đảng về mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế và giao lưu văn hóa mới chỉ là một trong những mục tiêu của xây dựng nền văn hóa, chứ chưa phải là chiến lược. Để đạt được mục tiêu đó cần phải có chiến lược rõ ràng do cơ quan quản lý nhà nước chuyên trách vạch ra. Trên cơ sở đó có kế hoạch, lộ trìn, bước đi thích hợp. Về vấn đề này có thể tham khảo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới. Có thể nêu một ví dụ về chiến lược ngoại giao văn hoá của Nhật Bản. Chiến lược ngoại giao văn hóa của Nhật Bản thể hiện trong văn kiện "Giao lưu văn hóa của quốc gia hoà bình" do Thủ tướng Nhật Bản lúc đó là Koizumi phê duyệt năm 2005. Chiến lược đó có nêu rõ ba trụ cột tinh thần chính trong giao lưu văn hóa của Nhật Bản: truyền bá, hấp thu và cộng sinh ra cái mới. Đồng thời, Nhật Bản cũng đề ra sách lược thực hiện chiến lược đó. Điều đáng chú ý là Nhật Bản đã không chỉ chú trọng bảo hộ truyền thống văn hoá mà quan tâm đến văn hóa hiện thời. Hơn nữa, truyền bá văn hóa đã trở thành nghĩa vụ của toàn xã hội. Điểm nổi bật là chiến lược ngoại giao văn hóa Nhật Bản không quá nhấn mạnh những cái gọi là an ninh văn hóa, xâm lược văn hoá. Cái chính là những người làm công tác văn hoá quốc gia khi đưa vào hoặc hấp thu văn hoá nước ngoài phải tự mình có đủ bản lĩnh hình thành một màn chắn ngăn cản việc đưa vào những nội dung không phù hợp với tâm lý dân tộc mình hoặc quan niệm văn hoá của mình. Điều này có thể gọi là sự tự tin văn hóa. Như vậy, qua ví dụ về chiến lược giao lưu văn hóa của Nhật Bản, chúng ta có thể thấy rằng, vấn đề vạch ra một chiến lược rõ ràng trong hoạt động này ở Việt Nam hiện nay là một trong những vấn đề quan trọng mà các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan cần phải lưu tâm. Trong chiến lược giao lưu văn hóa phải xác định cho rõ những gì chúng ta cần truyền bá, những gì cần hấp thu, tiếp biến và cơ sở để thực hiện. Nếu như chiến lược giao lưu văn hoá là một trong những vấn đề lớn, thì vấn đề hoàn thiện cơ chế phối hợp trong tổ chức thực hiện và giám sát các hoạt động quảng bá, tiếp nhận những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể là hết sức quan trọng. Hiện nay, trong vấn đề này mới chỉ chú trọng đến việc quản lý nhập khẩu, xuất khẩu văn hoá theo Nghị định số 88/2002/NĐCP. Nghị định này đã quy định rõ các loại văn hóa phẩm được phép xuất, nhập khẩu văn hóa phẩm. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, khi các phương tiện truyền thông, công nghệ thông tin đã trở nên phổ biến rộng rãi, hoạt động du lịch cũng dễ dàng hơn, việc giao lưu trong và ngoài nước phát triển, thì các hoạt động quảng bá cũng như tiếp nhận các giá trị văn hóa không chỉ qua con đường xuất, nhập khẩu văn hóa phẩm chính thống theo thủ tục cấp phép của Nhà nước. Chính vì vậy, các cơ quan quản lý cần nghiên cứu hoàn thiện cơ chế quản lý sao cho có hiệu quả hơn. Đặc biệt là đối với việc tổ chức tiếp nhận và quảng bá các giá trị văn hóa như lối sống, ngôn ngữ, tín ngưỡng, văn học, nghệ thuật, âm nhạc, quan điểm tư tưởng v.v… Trên thực tế, công tác quản lý lĩnh vưc này còn bộc lộ nhiều bất cập. Chúng ta chưa kiểm soát được các khâu xuất nhập khẩu văn hóa phẩm, xuất bản và quảng bá các loại sách, báo, băng đĩa nhạc, phim ảnh v.v… Việc đánh giá giá trị của các loại văn hoá phẩm cũng không phải là dễ vì chưa có một thước đo chuẩn. Hơn nữa, trình độ và nhận thức của những người làm công tác quản lý các hoạt động văn hóa cũng khác nhau và còn hạn chế. Trên phương diện quản lý, cũng cần lưu ý đến những ý kiến cho rằng, chúng ta mới chú trọng nhiều đến việc bảo tồn di sản văn hóa dân tộc ở trong nước, mà chưa chú trọng nhiều đến việc quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, ngôn ngữ tiếng Việt ra thế giới, cũng như việc tiếp nhận những nét tiên tiến, văn minh của các dân tộc khác. Nếu so sánh với các nước khác trên thế giới thì có thể thấy rõ điều đó. Ngoài các nước phương Tây, một số nước châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản rất chú trọng đến chính sách ngoại giao văn hóa. Họ quan tâm đầu tư cho lĩnh vực này, thông qua văn hóa, bằng mọi phương tiện và hình thức để tuyên truyền, quảng bá cho những giá trị văn hóa của họ, từ phim ảnh, nghệ thuật, ngôn ngữ, lối sống đến quan điểm tư tưởng… Trong khi đó, mặc dầu chúng ta đã có những cố gắng đáng ghi nhận nhưng nói chung vẫn còn nhiều hạn chế trong việc tổ chức tuyên truyền những giá trị văn hóa Việt Nam ở trong nước và nước ngoài. Chúng ta chưa chú trọng quang bá các tác phẩm văn học nghệ thuật, phim ảnh Việt Nam ra thế giới, việc đầu tư cho dịch thuật những tác phẩm có giá trị để giới thiẹu ra nước ngoài chưa nhiều. Trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài vẫn còn nhiều người không biết tiếng Việt. Do đó sự hiểu biết của người Việt về văn hóa Việt Nam còn ít chứ chưa nói đến việc tuyên truyền, quảng bá cho những giá trị văn hóa đó. 3. Một số định hướng trong quản lý hoạt động giao lưu văn hóa Về phương diện quản lý nhà nước, trong thời gian tới, để đẩy mạnh giao lưu văn hóa, cần thực hiện một số định hướng sau đây: Một là, các cơ quan chức năng cần tăng cường phối hợp để nhanh chóng xây dựng một chiến lược giao lưu văn hóa, trong đó không chỉ xác định mục tiêu, mà cái chính là những nguyên tắc, nguồn lực thực hiện giao lưu văn hóa. Đặc biệt, thực hiện tốt thoả thuận hợp tác giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Bộ Ngoại giao trong lĩnh vực văn hóa đối ngoại (giai đoạn 2008-2015), theo đó quy định rõ nội dung và cơ chế phối hợp giữa hai bộ. Hai là, cần tăng cường công tác quản lý, giám sát các hoạt động quảng bá và tiếp nhận các giá trị văn hóa không chỉ bằng cách hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy, mà còn bằng sự hỗ trợ của các phương tiện công nghệ - kỹ thuật tiên tiến, hiện đại. Ba là, thực hiện tốt chính sách ngoại giao văn hóa mà Đảng và Nhà nước đã đề ra, đặc biệt là Chương trình Năm ngoại giao văn hóa 2009; coi văn hóa đối ngoại là lĩnh vực trao đổi, hợp tác, đầu tư, thương mại và dịch vụ trong lĩnh vực văn hóa; coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một chủ thể tham gia hoạt động quảng bá những giá trị văn hóa dân tộc ra thế giới, đồng thời là đối tượng cần tuyên truyền đường lối văn hoá của Đảng và Nhà nước. Bốn là, cùng với việc đẩy mạnh công tác ngoại giao văn hóa, Nhà nước cần chú ý đén vấn đề tăng cường nội lực văn hóa trong nước. Điều quan trọng là phải đưa vấn đề giáo dục ý thức văn hóa đối với mọi tầng lớp nhân dân, nhận diện lại những giá trị văn hóa truyền thống, mạnh dạn nhận ra ảnh hưởng của việc bảo lưu các giá trị lạc hậu về văn hóa, dũng cảm chia tay với những giá trị văn hóa lạc hậu và tham gia vào các quá trình hợp tác một cách tự tin và cởi mở. Có thể nói, sự duy trì quá lâu các giá trị văn hoá đã lỗi thời làm cản trở tiến trình phát triển. Chính vì vậy, việc nhận diện đúng những giá trị văn hóa dân tộc sẽ giúp chúng ta giữ gìn, phát huy và quảng bá những nét đẹp, tích cực của nền văn hóa đó, đồng thời tiếp nhận những nét tiên tiến, văn minh của các nền văn hóa khác, loại bỏ đi những cái lạc hậu, không phù hợp với thời đại. Năm là, trên phương diện quản lý, hoạt động giao lưu văn hóa cần có sự tham gia của nhiều ngành, nhiều cấp và của cả toàn dân. Việc quản lý vừa có sự phân vai rõ ràng, vừa có sự phối hợp và sự chỉ đạo thống nhất. Các hoạt động giao lưu văn hoá phải được tiến hành trong sự phối hợp nhịp nhàng với các lĩnh vực ngoại giao, chính trị, kinh tế…, tạo thành sức mạnh tổng hợp phục vụ cho mục tiêu phát triển của đất nước. Sáu là, để hoạt động giao lưu văn hóa có hiệu quả, cần có sự đầu tư xác đáng của Nhà nước cả về tài lực và nhân lực cho lĩnh vực này. Chẳng hạn, nhà nước cần có sự tài trợ cho việc dịch thuật và phổ biến những tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị tuyên truyền, quảng bá cho nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc và hình ảnh đất nước, con người Việt Nam truyền thống và hiện đại, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, đầu tư cho việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực văn hoá, văn nghệ, nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ ngoại giao v.v… Thiết nghĩ rằng, với những bước tiến mới trong nhận thức cùng với việc hiện thực hoá những chủ trương của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh hoạt động giao lưu văn hóa, chúng ta sẽ hội nhập thành công trên con đường phát triển tiến bộ. Với ưu điểm là dễ dàng thực hiện, vừa có thể bảo đảm cho việc giao kết, vừa bảo đảm thực hiện hợp đồng hoặc cả hai, biện pháp đặt cọc được sử dụng phổ biến trong các giao dịch dân sự hiện nay. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy còn một số tình huống pháp lý chưa có sự thống nhất trong nhận thức pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch dân sự. Quan hệ nghĩa vụ là một mối liên hệ pháp lý giữa hai hoặc nhiều người, để nghĩa vụ được thực hiện đúng và đầy đủ đòi hỏi rất nhiều ở ý chí của các bên đối ước nhưng không phải lúc nào các bên cũng thực hiện nghĩa vụ của mình như đã thỏa thuận, cam kết; do đó, để ràng buộc các bên trong quá trình thực hiện nghĩa vụ, pháp luật quy định các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, trong đó có đặt cọc. Với ưu điểm là dễ dàng thực hiện, vừa có thể bảo đảm cho việc giao kết, vừa bảo đảm thực hiện hợp đồng hoặc cả hai, biện pháp đặt cọc được sử dụng phổ biến trong các giao dịch dân sự hiện nay. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy còn một số tình huống pháp lý chưa có sự thống nhất trong nhận thức pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch dân sự. 1. Hiệu lực của hợp đồng đặt cọc trong trường hợp người nhận đặt cọc không phải là người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Đặt cọc là một trong 09 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được quy định tại Điều 292 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 và được quy định riêng thành một điều luật cụ thể tại Điều 328 như sau: “1. Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng. 2. Trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Theo đó, đặt cọc là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nhưng cũng đồng thời là một giao dịch dân sự nên để một giao dịch đặt cọc có hiệu lực thì vẫn cần đáp ứng các điều kiện có hiệu lực của giao dịch sự nói chung. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là trường hợp người nhận đặt cọc không phải chủ thể đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (mặc dù có căn cứ như thừa kế, nhận chuyển nhượng nhưng chưa thực hiện việc sang tên…) thì đặt cọc có vô hiệu hay không? Thực tiễn xét xử các vụ án về đặt cọc cho thấy có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề điều kiện có hiệu lực của đặt cọc trong trường hợp bên nhận đặt cọc không phải là người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong bài viết này, tác giả đưa ra hai vụ án điển hình, tình huống cơ bản giống nhau nhưng cách giải quyết lại khác nhau, cụ thể như sau: Ví dụ 1: Bà P và ông T góp tiền để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất có diện tích 100m2 đứng tên bà M từ ông H. Ngày 07/10/2020, bà P, ông T (các đồng nguyên đơn) với ông H (bị đơn) ký kết hợp đồng đặt cọc để chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên với giá chuyển nhượng 1,2 tỉ đồng; phương thức thanh toán: Đặt cọc số tiền 100 triệu đồng, số tiền chuyển nhượng còn lại sẽ thanh toán khi ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Văn phòng công chứng. Tại thời điểm đặt cọc, ông T và bà P đã được ông H cho xem giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà M cũng như thông tin đối với thửa đất mà hai bên thỏa thuận đặt cọc. Tuy biết ông H vừa đặt cọc mua đất của bà M và đang trong quá trình đổi sổ nhưng ông T, bà P vẫn đồng ý giao kết hợp đồng đặt cọc với ông H. Thời hạn thực hiện giao dịch tại Văn phòng công chứng trong vòng 03 tháng kể từ ngày ký hợp đồng đặt cọc. Sau khi ký hợp đồng đặt cọc, các đồng nguyên đơn đã giao cho ông H số tiền đặt cọc 100 triệu đồng và tại thời điểm ký kết hợp đồng đặt cọc thì ông H cam kết quyền sử dụng đất thỏa thuận chuyển nhượng không có tranh chấp, không quy hoạch và bao đổi sổ. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hợp đồng, qua tìm hiểu thông tin quy hoạch trên Cổng thông tin điện tử tỉnh B, phía nguyên đơn phát hiện phần đất mình thỏa thuận chuyển nhượng nằm trong quy hoạch con đường chiếm hơn 2/3 diện tích đất. Sau khi phát hiện sự việc, nguyên đơn đã nhiều lần liên hệ ông H để yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc giữa hai bên đồng thời yêu cầu trả số tiền đặt cọc 100 triệu đồng đã nhận nhưng ông H không đồng ý. Nguyên đơn cho rằng, ông H đã vi phạm cam kết trong hợp đồng và tại thời điểm ký hợp đồng đặt cọc ông H không phải là chủ sử dụng đất nên ông H không có quyền ký kết hợp đồng đặt cọc để chuyển nhượng quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc, bị đơn phải hoàn trả cho nguyên đơn số tiền đặt cọc 100 triệu đồng. Cơ quan tiến hành tố tụng cho rằng, hợp đồng đặt cọc giữa ông H và bà P vi phạm điều kiện về chủ thể (tại thời điểm ông H nhận đặt cọc của vợ chồng bà P thì quyền sử dụng đất do bà M đứng tên) nên vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, buộc ông H hoàn trả lại số tiền đặt cọc đã nhận cho vợ chồng bà P. Ví dụ 2: Tương tự nội dung vụ án trên, khi người nhận đặt cọc (bên bán) chưa được đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lại “hứa bán” cho người khác, tuy nhiên cơ quan tiến hành tố tụng lại cho rằng hợp đồng đặt cọc không vô hiệu. Ngày 16/11/2020, nguyên đơn bà H và bị đơn ông L thỏa thuận ký hợp đồng đặt cọc về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất đối với phần đất có diện tích 176m2 với giá chuyển nhượng là 495 triệu đồng. Nguyên đơn đặt cọc cho bị đơn 50 triệu đồng, còn lại 440 triệu đồng hẹn đến ngày ra Văn phòng công chứng để làm thủ tục chuyển nhượng thì giao hết. Đồng thời thỏa thuận nếu ngày ra văn phòng công chứng, bên A (ông L) không cung cấp giấy tờ liên quan về thửa đất hay bị tranh chấp, hoặc đổi ý không bán thì sẽ đền cọc gấp hai lần cho bên B (bà H); bên B không đúng hẹn theo thỏa thuận đặt cọc sẽ mất toàn bộ số tiền đặt cọc cho bên A. Trước khi ký kết hợp đồng đặt cọc thì bà H là người trực tiếp kiểm tra hiện trạng đất và xem xét thông tin bản phôtô giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông Q đứng tên do ông L cung cấp nhưng bà H không có ý kiến phản đối. Mặt khác, trước đó, ngày 15/11/2020, thì vợ chồng ông Q đã đồng ý chuyển nhượng quyền sử dụng đất cùng với tài sản gắn liền với đất cho ông L thể hiện tại hợp đồng đặt cọc để đảm bảo thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Tại khoản 2 Điều 5 của Hợp đồng thể hiện: “Sau khi ký hợp đồng này, bên B được phép đưa tài sản trên tham gia giao dịch mua bán”. Việc ông L chuyển nhượng lại phần đất trên cho bà H thì vợ chồng ông Q đều biết và đồng ý với giao dịch này. Đến trước ngày hẹn ra Văn phòng công chứng ký hợp đồng chuyển nhượng thì nguyên đơn khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng đặt cọc về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất vô hiệu, buộc bị đơn trả lại số tiền 50 triệu đồng cho nguyên đơn do phát hiện bị đơn chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất trên mà đang do ông Q đứng tên. Trong vụ án này, cơ quan tiến hành tố tụng nhận định rằng việc ông L nhận đặt cọc của bà H để đảm bảo việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì người đang đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là ông Q biết và trước đó ông Q cũng đã nhận đặt cọc của ông L, thỏa thuận sau khi ký hợp đồng đặt cọc thì ông L được quyền đưa tài sản tham gia giao dịch mua bán. Bà H cũng được ông L thông tin quyền sử dụng đất trên đang đứng tên ông Q và bà H không có ý kiến phản đối. Do đó, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về yêu cầu việc tuyên hợp đồng đặt cọc vô hiệu và buộc bị đơn hoàn trả lại số tiền đặt cọc đã nhận. Hiện nay, vấn đề cá nhân chưa phải là chủ thể có quyền sử dụng đất (chưa được đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, mặc dù có căn cứ rõ ràng họ sẽ trở thành chủ sử dụng đất) nhưng lại nhận đặt cọc của một cá nhân khác để đảm bảo cho việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, dẫn đến việc xử lý chưa thống nhất. Quan điểm thứ nhất cho rằng, việc tuyên vô hiệu hợp đồng đặt cọc đảm bảo việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, buộc bị đơn hoàn trả tiền đặt cọc đã nhận của nguyên đơn là phù hợp quy định của pháp luật. Bởi lẽ, tại thời điểm giao kết hợp đồng đặt cọc, hai bên đều biết đất đang đứng tên người khác nên vi phạm điều kiện về chủ thể. Theo Điều 328 BLDS năm 2015 thì thỏa thuận về đặt cọc là giao dịch dân sự. Do đó, việc đặt cọc chỉ có hiệu lực khi có đủ các điều kiện quy định tại Điều 117 BLDS năm 2015: “...Nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội”. Đồng thời, khoản 1 Điều 188 Luật đất đai năm 2013 quy định về điều kiện được thực hiện các quyền sử dụng đất chỉ khi: Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; đất không có tranh chấp; quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án. Xét giao dịch đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên được thực hiện khi bị đơn không phải là chủ sử dụng đất. Do đó, nội dung thỏa thuận của các bên là vi phạm điều cấm của Luật đất đai năm 2013 nên vô hiệu. Quan điểm thứ hai cũng là quan điểm của tác giả cho rằng, mặc dù bị đơn trong hai vụ án trên không phải là chủ thể đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thời điểm nhận đặt cọc, tuy nhiên trước đó các bị đơn đã giao kết hợp đồng đặt cọc với chủ thể có quyền sử dụng đất, người này biết và đồng ý cho các bị đơn được phép chuyển nhượng đất cho người khác; các nguyên đơn cũng được bị đơn thông tin về tình trạng pháp lý của thửa đất và chấp nhận đặt cọc nên hợp đồng đặt cọc không vô hiệu do vi phạm điều cấm. Việc các nguyên đơn đưa ra các lý do khác nhau, trong đó có lý do bị đơn không phải là người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để từ chối tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là vi phạm thoả thuận. Tác giả nhận thấy hợp đồng đặt cọc là hợp đồng có điều kiện “hứa mua, hứa bán”; để chứng minh sự nghiêm túc của bên mua đối với giao dịch được bảo đảm bởi đặt cọc. Các bên tiến hành giao kết hợp đồng đặt cọc khi đã được sự đồng ý của người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, người nhận đặt cọc cũng biết tình trạng pháp lý của thửa đất nhưng không có ý kiến phản đối. Đây là sự tự nguyện thỏa thuận của các bên, không trái đạo đức xã hội, không vi phạm điều cấm của pháp luật đất đai để đảm bảo cho việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi đã đủ điều kiện hoặc “sẽ” đủ điều kiện, không phải là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nên không vi phạm Điều 117 BLDS năm 2015 và khoản 1 Điều 188 Luật đất đai năm 2013, tức là hợp đồng đặt cọc không bị vô hiệu. Việc nguyên đơn đưa ra lý do bị đơn không phải là người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để không tiếp tục thực hiện hợp đồng, dẫn đến không thể ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là vi phạm thỏa thuận nên bị mất cọc là hợp lý. Đặt cọc là một giao dịch “đặc biệt” nhưng sự đặc biệt này của đặt cọc không đủ để lý giải cũng như cho phép tuyên bố đặt cọc vô hiệu một cách tùy tiện. Mở rộng ra nội dung hai vụ án trên, giả sử các bên đã ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (được đảm bảo bằng hợp đồng đặt cọc) khi các bị đơn vẫn chưa được sang tên quyền sử dụng đất thì hợp đồng chuyển nhượng lúc này vô hiệu do vi phạm Điều 117 BLDS năm 2015 và khoản 1 Điều 188 Luật đất đai năm 2013. Khi đó, vấn đề đặt ra là hợp đồng đặt cọc có vô hiệu cùng với việc vô hiệu của hợp đồng chuyển nhượng hay không. Tác giả cho rằng không nên tuyên bố hợp đồng đặt cọc vô hiệu mà cần công nhận giá trị của đặt cọc để xử lý trách nhiệm đối với người làm cho hợp đồng được đảm bảo bởi đặt cọc vô hiệu. Tuyên vô hiệu đặt cọc trong trường hợp này thì ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của bên còn lại và không phù hợp trong quan hệ dân sự. 2. Không tính lãi trên số tiền đặt cọc trong trường hợp hợp đồng đặt cọc vô hiệu, bên nhận đặt cọc có nghĩa vụ hoàn trả tiền cọc cho bên đặt cọc Trong thực tiễn xét xử, không ít trường hợp Tòa án tuyên bố hợp đồng đặt cọc vô hiệu, giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, buộc bên nhận cọc trả lại cho bên đặt cọc số tiền đặt cọc và tiền lãi suất trên số tiền cọc đã chiếm giữ kể từ ngày nhận đặt cọc. Ví dụ: Ngày 11/8/2019, ông H và Công ty B ký hợp đồng nhận cọc giữ chỗ thuê nhà xưởng đối với một phần lô đất H7, thời hạn thuê 06 năm kể từ ngày bàn giao nhà xưởng. Ông H đã đặt cọc cho Công ty B số tiền 164 triệu đồng, nhưng đến thời hạn thỏa thuận, Công ty không bàn giao nhà xưởng cho ông H nên ông H khởi kiện yêu cầu Công ty B trả lại tiền cọc và bồi thường gấp hai lần tiền cọc đã nhận. Bị đơn là Công ty B thừa nhận có ký hợp đồng đặt cọc, do công ty không kịp hoàn thành thi công nên hai bên thoả thuận lại ngày bàn giao nhà xưởng, đến hạn Công ty B thông báo nhưng ông H không đến nhận, Công ty B không đồng ý trả cọc và bồi thường. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên hợp đồng đặt cọc giữa ông H và Công ty B bị vô hiệu do không đảm bảo điều kiện về phương thức thanh toán (do hai bên dùng ngoại tệ để đặt cọc) và buộc bị đơn hoàn trả cho nguyên đơn số tiền đặt cọc cùng một khoản tiền lãi suất trên số tiền đặt cọc đã nhận từ thời điểm ký hợp đồng. Trường hợp này, tác giả không phân tích tính đúng sai của việc tuyên hợp đồng đặt cọc vô hiệu mà chỉ phân tích việc tính lãi đối với số tiền cọc. Vấn đề đặt ra là lãi trên khoản tiền đã nhận có là một nội dung của phạt cọc hay không và có phù hợp quy định của pháp luật không? Có quan điểm cho rằng, trường hợp trên ông H đặt cọc cho Công ty B để giữ chỗ thuê nhà xưởng đối với một phần lô đất H7 nhưng Công ty B không bàn giao nhà xưởng cho ông H khi đến thời hạn là Công ty B vi phạm thỏa thuận. Theo khoản 2 Điều 238 BLDS năm 2015 thì đây là vụ án tranh chấp về hợp đồng đặt cọc nên buộc Công ty B trả lại tiền đặt cọc cho ông H là hợp lý, còn việc tính lãi suất trên số tiền đặt cọc là chưa đúng. Theo tác giả, Điều 328 BLDS năm 2015 không quy định việc phải hoàn trả lãi suất trên số tiền cọc đã nhận trong trường hợp bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết hợp đồng, do đó không thể tính lãi trên số tiền đặt cọc do hợp đồng đặt cọc vô hiệu khi pháp luật không có quy định, các bên cũng không có thỏa thuận, tiền lãi cũng không phải là một dạng “phạt cọc”. Nghĩa vụ hoàn trả tiền đặt cọc là nghĩa vụ trả tiền, tuy nhiên, thời điểm bên nhận cọc có nghĩa vụ hoàn trả là thời điểm Tòa án ra quyết định bằng một bản án có hiệu lực pháp luật, không phải thời điểm hai bên giao kết hợp đồng đặt cọc, do đó việc tuyên bị đơn phải trả tiền cọc cùng với tiền lãi như vụ án trên là không hợp lý. ThS. Diệp Ngọc Dinh (Tạp chí Kiểm sát số 16/2023) Các doanh nghiệp yêu cầu tư vấn pháp luật để hoạt động, kinh doanh đúng quy định của pháp luật; phòng ngừa các rủi ro pháp lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Các doanh nghiệp trở thành nguồn khách hàng chủ yếu và mang lại nguồn thu nhập cao cho luật sư. Hoạt động tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp cũng trở thành một trong những dịch vụ pháp lý và hoạt động nghề nghiệp chủ yếu của luật sư. Nhiều luật sư phát triển nghề nghiệp của mình theo hướng chuyên môn hóa về tư vấn doanh nghiệp, cung cấp dịch vụ tư vấn doanh nghiệp một cách chuyên nghiệp và chuyên sâu. Bài viết này trình bày khái lược một số vấn đề lý luận về tư vấn doanh nghiệp và kỹ năng của luật sư trong việc tư vấn pháp luật doanh nghiệp. 1. Khái niệm, đặc điểm tư vấn doanh nghiệp “Tư vấn doanh nghiệp” là cách gọi vắn tắt của “tư vấn pháp luật về doanh nghiệp”, “tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp”. Nói đến “tư vấn pháp luật về doanh nghiệp” là nói đến lĩnh vực, nội dung tư vấn. Nói đến “tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp” là nói đến đối tượng yêu cầu tư vấn, được tư vấn, nói đến khách hàng của luật sư là các doanh nghiệp. 1.1. Khái niệm doanh nghiệp và các loại hình doanh nghiệp Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh[1]. Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một hoặc một số công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi[2]. Tùy theo mục đích nghiên cứu và tiêu chí phân loại khác nhau, doanh nghiệp được chia thành nhiều loại khác nhau. Nếu xét từ dấu hiệu sở hữu, có thể chia doanh nghiệp thành doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp của các tổ chức, tổ chức chính trị – xã hội,… Nếu xét về phương thức đầu tư vốn, có thể chia doanh nghiệp thành doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Căn cứ vào hình thức pháp lý của doanh nghiệp được quy định theo Luật doanh nghiệp 2005, có các loại hình doanh nghiệp sau: Công ty trách nhiệm hữu hạn (bao gồm Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và Công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở lên), Công ty cổ phần, Công ty hợp doanh và doanh nghiệp tư nhân. 1.2. Khái niệm và đặc điểm tư vấn doanh nghiệp Để hiểu thế nào là tư vấn doanh nghiệp, trước hết cần tìm hiểu khái niệm chung về tư vấn pháp luật. Tư vấn pháp luật là một trong những dịch vụ pháp lý và hoạt động nghề nghiệp chủ yếu của luật sư. Điều 4 Luật Luật sư 2006 ghi nhận: “Dịch vụ pháp lý của luật sư bao gồm tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng và các dịch vụ pháp lý khác”. Điều 28 Luật Luật sư 2006 định nghĩa: “Tư vấn pháp luật là việc luật sư hướng dẫn, đưa ra ý kiến, giúp khách hàng soạn thảo các giấy tờ liên quan đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của họ”. Từ khái niệm chung về tư vấn pháp luật, chúng ta có thể định nghĩa “tư vấn doanh nghiệp” như sau: “Tư vấn doanh nghiệp là hoạt động tư vấn pháp luật của luật sư đối với doanh nghiệp,liên quan đến việc thành lập, hoạt động và chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm việc luật sư hướng dẫn, đưa ra ý kiến, giúp doanh nghiệp soạn thảo các giấy tờ liên quan đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp”. Qua định nghĩa nêu trên, chúng ta có thể rút ra một số đặc điểm của tư vấn doanh nghiệp: + Luật sư có thể tư vấn doanh nghiệp bằng cách đưa ra hướng dẫn để doanh nghiệp thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Nội dung yêu cầu tư vấn của doanh nghiệp trong trường hợp này thường là câu hỏi: “Tôi phải làm gì?”. Kết quả của việc tư vấn này đòi hỏi luật sư đưa ra giải pháp cho doanh nghiệp thực hiện. + Luật sư cũng có thể tư vấn cho doanh nghiệp đưa ra ý kiến pháp lý, tức là đưa ra các ý kiến, nhận định, đánh giá của luật sư đối với nội dung yêu cầu tư vấn nào đó của doanh nghiệp đưa ra. Nội dung yêu cầu tư vấn của doanh nghiệp trong trường hợp này thường là câu hỏi: “Vấn đề này như thế nào? Đúng hay sai?”. + Luật sư cũng có thể tư vấn bằng cách giúp doanh nghiệp soạn thảo các văn bản theo yêu cầu của doanh nghiệp. Chẳng hạn soạn thảo Điều lệ Công ty, Hợp đồng, soạn thảo các công văn, thư từ thương lượng với đối tác, thư yêu cầu thu hồi công nợ, thông báo, … Trên thực tế, một hoạt động tư vấn doanh nghiệp của luật sư thường là tổng hợp của tất cả những biểu hiện nêu trên. Đối với mỗi yêu cầu tư vấn của doanh nghiệp, trước hết luật sư đưa ra ý kiến, sau đó tư vấn các giải pháp, hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện và trong nhiều trường hợp, theo yêu cầu của doanh nghiệp, luật sư sẽ soạn thảo giúp doanh nghiệp các văn bản cần thiết để thực hiện các giải pháp pháp lý mà luật sư đã nêu ra cho doanh nghiệp lựa chọn. Tư vấn doanh nghiệp không chỉ “gói gọn” trong Luật doanh nghiệp, Luật thương mại mà còn phải áp dụng, vận dụng rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật đất đai, Luật phá sản, các văn bản pháp luật về thuế, các văn bản pháp luật chuyên ngành (Luật Kinh doanh bất động sản, Luật chứng khoán,…),… thậm chí trong nhiều trường hợp, phải áp dụng các Điều ước quốc tế (các cam kết gia nhập WTO, Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, Hiệp định thương mại song phương,…), tập quán quốc tế (Incoterms 2000, 2010; UCP 600,…). Từ định nghĩa và đặc điểm của tư vấn doanh nghiệp, chúng ta cũng có thể thấy được vai trò của hoạt động này. Vai trò của tư vấn doanh nghiệp là giải đáp pháp luật, hướng dẫn doanh nghiệp ứng xử đúng pháp luật; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp và tránh rủi ro trong kinh doanh. 2. Một số nguyên tắc cơ bản của hoạt động tư vấn doanh nghiệp Tư vấn pháp luật nói chung và tư vấn doanh nghiệp là hoạt động đòi hỏi sự lao động trí óc cẩn trọng, sâu sắc. Do vậy, khi tư vấn, luật sư phải tuân thủ một số nguyên tắc cơ bản sau đây: Ngoài những nguyên tắc cơ bản nêu trên, trong quá trình luật sư tư vấn cho doanh nghiệp, luật sư còn phải tuân thủ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư. 3. Các hình thức tư vấn doanh nghiệp Có nhiều hình thức tư vấn doanh nghiệp khác nhau theo các tiêu chí phân loại khác nhau. Căn cứ vào cách thức chuyển tải, truyền đạt nội dung tư vấn, có thể phân chia tư vấn doanh nghiệp thành hai hình thức: Tư vấn doanh nghiệp bằng văn bản (kể cả văn bản điện tử) và tư vấn doanh nghiệp bằng lời nói. Căn cứ vào phương tiện tư vấn, có thể phân chia hoạt động tư vấn doanh nghiệp theo các hình thức: tư vấn qua email, tư vấn qua văn bản giấy in, tư vấn qua điện thoại,… Căn cứ vào mức độ tư vấn thường xuyên, tư vấn doanh nghiệp được phân chia thành tư vấn thường xuyên và tư vấn theo vụ việc. Tư vấn thường xuyên có thể được thực hiện thông qua luật sư nội bộ của doanh nghiệp (dưới hình thức Hợp đồng lao động) hoặc thông qua hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp lý thường xuyên giữa doanh nghiệp với luật sư hoặc tổ chức hành nghề luật sư. Tư vấn doanh nghiệp theo vụ việc là việc luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý tư vấn cho doanh nghiệp đối với mỗi vụ việc cụ thể khi doanh nghiệp có yêu cầu. Mỗi lần tư vấn theo vụ việc thường được thực hiện theo một hợp đồng dịch vụ pháp lý riêng biệt. 4. Các dạng hoạt động tư vấn doanh nghiệp Tư vấn doanh nghiệp là lĩnh vực tư vấn sâu rộng, có nhiều dạng tư vấn vấn khác nhau, bao gồm năm dạng tư vấn doanh nghiệp chính: Một là, tư vấn thành lập, tổ chức lại, giải thể và phá sản doanh nghiệp. Phạm vi tư vấn dạng này rất đa dạng, bao gồm giải thích một số quy định pháp luật liên quan đến doanh nghiệp; giúp khách hàng lựa chọn các phương án thành lập, tổ chức lại, giải thể và phá sản doanh nghiệp; giúp khách hàng soạn thảo các văn bản, tài liệu, chuẩn bị hồ sơ đăng ký kinh doanh để thành lập, tổ chức lại, giải thể; thực hiện các công việc cần thiết trong thủ tục yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp; trong nhiều trường hợp, luật sư đại diện cho khách hàng thực hiện các thủ tục hành chính có liên quan,… Trong hoạt động thành lập, đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp, luật sư thường gặp các yêu cầu tư vấn sau: tư vấn lựa chọn hình thức doanh nghiệp phù hợp,; tư vấn về điều kiện thành lập và đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp đã lựa chọn; tư vấn về thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp; giúp khách hàng chuẩn bị hồ sơ đăng ký kinh doanh, nộp và thực hiện các thủ tục khác tại cơ quan đăng ký kinh doanh để doanh nghiệp được nhận Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; tư vấn triển khai các thủ tục sau đăng ký kinh doanh để đưa doanh nghiệp vào hoạt động. Trong hoạt động tổ chức lại doanh nghiệp, luật sư thường gặp các yêu cầu tư vấn sau: Tư vấn lựa chọn hình thức tổ chức lại doanh nghiệp phù hợp với nhu cầu của khách hàng (sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức pháp lý của doanh nghiệp); tư vấn về điều kiện, thủ tục thực hiện việc tổ chức lại doanh nghiệp theo phương án khách hàng đã lựa chọn; giúp khách hàng triệu tập các cuộc họp của cơ quan quản lý nội bộ doanh nghiệp dể xem xét, quyết định việc tổ chức lại doanh nghiệp dứoi một hình thức cụ thể và soạn thảo các văn bản liên quan; chuẩn bị hồ sơ tổ chức lại doanh nghiệp gửi cơ quan đăng ký kinh doanh; giúp khách hàng triển khai các công việc cần thiết để tổ chức hoạt động cho doanh nghiệp trong mô hình mới; tư vấn giải quyết các xung đột trong nội bộ doanh nghiệp liên quan đến việc tổ chức lại doanh nghiệp. Trong hoạt động giải thể doanh nghiệp, luật sư thường gặp các yêu cầu tư vấn sau: Tư vấn về điều kiện, thủ tục thực hiện việc giải thể doanh nghiệp; giúp khách hàng triệu tập các cuộc họp của cơ quan quản lý nội bộ doanh nghiệp để xem xét, quyết định về việc giải thể doanh nghiệp; soạn thảo các văn bản có liên quan đến việc ra quyết định giải thể doanh nghiệp; chuẩn bị hồ sơ giải thể doanh nghiệp gửi các cơ quan hữu quan; giúp khách hàng triển khai các công việc cần thiết để giải thể doanh nghiệp; tư vấn giải quyết các xung đột giữa các thành viên, cổ đông của doanh nghiệp phát sinh từ việc giải thể doanh nghiệp. Trong hoạt động phá sản doanh nghiệp, luật sư thường gặp các yêu cầu tư vấn sau: Tư vấn nhận biết các dấu hiệu của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản; tư vấn về điều kiện, thủ tục thực hiện việc phá sản doanh nghiệp; giúp khách hàng chuẩn bị hồ sơ yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp hoặc các công văn trả lời theo yêu cầu của Tòa án giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp; chuẩn bị các tài liệu, giấy tờ cần thiết liên quan đến việc giải quyết phá sản doanh nghiệp gửi Tòa án; giúp doanh nghiệp xây dựng phương án tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để trình hội nghị chủ nợ; tư vấn các vấn đề bnhằm bảo toàn tài sản của doanh nghiệp mắc nợ; tư vấn giải quyền quyền lợi cho các đối tượng liên quan (người lao đọng, chủ nợ, các chủ sở hữu của doanh nghiệp) khi thanh lý tài sản của doanh nghiệp; tư vấn các hậu quả pháp lý phát sinh khi doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản; trong nhiều trường hợp, luật sư được doanh nghiệp ủy quyền toàn bộ tham gia thủ tục giải quyết phá sản tại Tòa án. Tuy vậy, so với các hoạt đọng tư vấn khác, tư vấn về phá sản doanh nghiệp ít gặp hơn trong thực tế. Hai là, tư vấn quản lý nội bộ doanh nghiệp. Tư vấn pháp luật trong hoạt động quản lý nội bộ doanh nghiệp là giải đáp pháp luật, hướng dẫn doanh nghiệp ứng xử đúng pháp luật với mục đích điều chỉnh mối quan hệ của các chủ thể tham gia trong doanh nghiệp như các cổ đông, thành viên góp vốn, Hội đồng quản trị, Giám đốc, người lao động hoặc những người có liên quan khác và các biện pháp để những người này thực hiện được lợi ích của họ[4]. Tư vấn quản lý nội bộ doanh nghiệp giúp cho doanh nghiệp hoạt động tốt và thực hiện được các chiến lược kinh doanh; tránh các mâu thuẫn nội bộ trong doanh nghiệp, xây dựng chiến lược kinh doanh tốt và nâng cao khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp. Tư vấn quản lý nội bộ doanh nghiệp bao gồm rất nhiều nội dung, trong đó có thể đề cập một số nội dung cơ bản sau đây: Tư vấn thiết kế cơ cấu tổ chức quản lý nội bộ doanh nghiệp: là việc tư vấn mô hình tổ chức quản trị công ty dựa trên các yếu tố: hình thức pháp lý của doanh nghiệp, quy mô hoạt động và hình thức liên kết các đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp và nguyện vọng của chủ sở hữu. Tư vấn phân bổ quyền lực trong doanh nghiệp: phân bổ quyền lực trong doanh nghiệp là phân bổ quyền lực giữa chủ sở hữu và người quản trị, điều hành doanh nghiệp, đảm bảo quyền của chủ sở hữu đồng thời đảm bảo quyền quản trị độc lập của người quản trị doanh nghiệp. Tư vấn phân bổ quyền lực trong doanh nghiệp nhằm đảm bảo không có sự chồng chéo trong chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận; đảm bảo cho doanh nghiệp một cơ chế xây dựng chiến lược kinh doanh và cơ chế thực thi các chiến lược này; đảm bảo thực hiện đúng các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu, cơ quan quản trị và điều hành trong doanh nghiệp. Tư vấn hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý nội bộ của doanh nghiệp: Các văn bản quản lý nội bộ của doanh nghiệp bao gồm các văn bản trong hồ sơ pháp nhân của doanh nghiệp (Điều lệ, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, hồ sơ con dấu,m hồ sơ tài khoản…); các văn bản mang tính quản lý nội bộ của doanh nghiệp (đây là loại văn bản do doanh nghiệp ban hành để phân chia quyền lực, quy định chức năng, nhiệm vụ, phạm vi, giới hạn quyền lực và trách nhiệm của các bộ phận, đồng thời điều chỉnh các mối quan hệ và sự phối hợp giữa các bộ phận trong nội bộ doanh nghiệp) và các văn bản mang tính sự vụ (văn bản doanh nghiệp ban hành để giải quyết một công việc cụ thể phát sinh trong hoạt động của doanh nghiệp như quyết định bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm một chức danh,…). Tư vấn trong việc kiểm soát các giao dịch lớn và giao dịch dễ phát sinh tư lợi: Giao dịch có giá trị lớn là các giao dịch có giá trị lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản doanh nghiệp ghi trong báo cáo tài chính gần nhất hoặc một tỷ lệ nhỏ hơn được quy định tại Điều lệ doanh nghiệp. Giao dịch dễ phát sinh tư lợi thường là các giao dịch giữa doanh nghiệp và “người liên quan” của doanh nghiệp đó. Hoạt động tư vấn này giúp doanh nghiệp tránh được các rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Tư vấn nguyên tắc hoạt động và thủ tục thông qua các quyết định quản lý của doanh nghiệp: bao gồm nguyên tắc và quy trình ban hành Nghị quyết của Hội đồng thành viên, Đại hội đồng cổ đông; nguyên tắc hoạt động và quy trình ban hành quyết định của Hội đồng quản trị trong Công ty cổ phần; tư vấn về phạm vi chịu trách nhiệm của người quản lý, điều hành doanh nghiệp. Ba là, tư vấn về sử dụng lao động trong doanh nghiệp. Tư vấn về sử dụng lao động trong doanh nghiệp bao gồm tư vấn về tuyển dụng lao động; tư vấn quản lý, sử dụng lao động trong doanh nghiệp (gồm tư vấn xây dựng nội quy lao động, tư vấn xây dựng thỏa ước lao động tập thể); tư vấn trong quá trình quản lý, sử dụng lao động (tạm thời chuyển người lao động làm việc khác trái nghề, tư vấn về xử lý kỷ luật người lao động); tư vấn chấm dứt quan hệ lao động (tư vấn chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp doanh nghiệp thay đổi cơ cấu, công nghiệp; tư vấn chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc được giao). Bốn là, tư vấn về tài chính doanh nghiệp. Tư vấn về tài chính doanh nghiệp bao gồm tư vấn quy chế pháp lý về vốn, tài sản của các loại hình doanh nghiệp;tư vấn về quy chế pháp lý tạo lập, huy động, quản lý, sử dụng và định đoạt các nguồn vốn và tài sản của doanh nghiệp; tư vấn pháp luật về lợi nhuận và phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp; tư vấn về các quy định pháp luật thuế áp dụng đối với doanh nghiệp. Năm là, tư vấn về quyền sở hữu công nghiệp. Quyền sở hữu công nghiệp của doanh nghiệp là quyền của doanh nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh. Tư vấn về quyền sở hữu công nghiệp của doanh nghiệp gồm tư vấn về thủ tục đăng ký bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp phải đăng ký, thủ tục gia hạn, soạn thảo các văn bản liên quan,… Trong một số trường hợp, luật sư tư vấn về sở hữu công nghiệp phải được được tào tạo chuyên môn riêng biệt và được cấp phép bởi Cục Sở hữu trí tuệ. 5. Yêu cầu, kỹ năng của luật sư tư vấn doanh nghiệp 5.1. Yêu cầu đối với luật sư tư vấn doanh nghiệp Để tư vấn doanh nghiệp được tốt, luật sư cần đáp ứng một số yêu cầu cơ bản sau đây: 5.2. Kỹ năng tư vấn doanh nghiệp Cũng như kỹ năng tư vấn pháp luật nói chung, ký năng tư vấn doanh nghiệp bao gồm các kỹ năng cơ bản tương ứng với các giai đoạn sau đây: Một là kỹ năng tiếp xúc khách hàng, tìm hiểu yêu cầu tư vấn. Tiếp xúc khách hàng, tìm hiểu yêu cầu tư vấn có thể được thực hiện qua nhiều hình thức: trực tiếp tại văn phòng luật sư hoặc qua điện thoại hoặc qua email và các phương tiện giao tiếp khác. Dù thực hiện với hình thức nào, luật sư cũng cần phải có kỹ năng giao tiếp để tiếp xúc khách hàng, và kỹ năng phân tích vấn đề, khai thác thông tin để tìm hiểu yêu cầu tư vấn. Trong quá trình tiếp xúc, tìm hiểu yêu cầu tư vấn của khách hàng, luật sư cần biết lắng nghe, đặt câu hỏi; xác định những thông tin, tài liệu cần thu thập. Trong nhiều trường hợp luật sư cũng cần biết cách để chuyển hướng trình bày của khách hàng vào đúng trọng tâm. Khi tiếp xúc khách hàng, luật sư cần chú trọng đến trang phục, thái độ phải lịch sự, nhã nhặn, đúng mực; xây dựng niềm tin nơi khách hàng. Khi tiếp xúc khách hàng và tìm hiểu yêu cầu tư vấn, luật sư cần nắm bắt những thông tin ban đầu về: tính chất vụ việc, tính khẩn cấp của vụ việc, các tài liệu chủ yếu liên quan đến hồ sơ, các thông tin chính về khách hàng. Để nắm bắt sự việc, luật sư cần có khả năng khái quát hóa và cụ thể hóa; làm sáng tỏ các câu hỏi liên quan đến vụ việc: Ai? Cái gì? Khi nào? Ở đâu? Như thế nào? Tại sao? Hai là, kỹ năng thỏa thuận hợp đồng dịch vụ pháp lý. Khi kết thúc giai đoạn tìm hiểu yêu cầu tư vấn, luật sư có thể đưa ra nhận định về kết luận sơ bộ về vụ việc; đánh giá tính chất và dự kiến được phạm vi, khối lượng công việc, thời gian và nhân sự để xử lý công việc, từ đó có cơ sở để chào phí dịch vụ tư vấn với doanh nghiệp và ký kết Hợp đồng dịch vụ pháp lý. Nếu là hình thức tư vấn thường xuyên thì Hợp đồng dịch vụ pháp lý có thể đã được ký kết trước khi tìm hiểu yêu cầu tư vấn. Ba là, kỹ năng xác định vấn đề pháp lý. Đây là giai đoạn rất quan trọng trong hoạt động tư vấn, ảnh hưởng đến kết quả của hoạt động tư vấn. Thực chất của việc xác định vấn đề pháp lý là nghiên cứu một cách kỹ lưỡng và thấu đáo hồ sơ, thông tin của khách hàng cung cấp và tìm ra những vấn đề mấu chốt cần giải quyết. Khi xác định vấn đề pháp lý, luật sư cần xuất phát từ câu hỏi của khách hầng muốn luật sư giải đáp. Bốn là, kỹ năng xác định luật áp dụng. Việc xác định vấn đề pháp lý là việc tìm ra câu hỏi pháp lý của nội dung yêu cầu tư vấn. Quy định pháp luật là nơi tìm ra cấu trả lời cho các câu hỏi pháp lý đó. Khi tra cứu văn bản pháp luật, luật sư cần xác định hiệu lực về không gian, thời gian của văn bản pháp luật áp dụng; dựa vào tính chất pháp lý của dữ kiện để xác định lĩnh vực pháp luật và các văn bản pháp luật cần nghiên cứu; dựa vào các câu hỏi pháp lý đã được xác định để tìm các điều luật liên quan. Khi tìm kiếm các văn bản pháp luật, luật sư không chỉ nghiên cứu các văn bản luật mà phải kiến cứu một cách toàn diện các văn bản quy phạm pháp luật, kêt cả cả các văn bản dưới luật hướng dẫn văn bản luật đó. Quá trình áp dụng văn bản quy phạm pháp luật vào tình huống của khách hàng là quá trình lập luận để trả lời các vấn đề pháp lý mà nội dung tư vấn doanh nghiệp đặt ra. Luật sư cần nâng cao khả năng sử dụng các công cụ online (trực tuyến qua mạng internet) để tìm kiếm các văn bản pháp luật, đảm bảo tính nhanh chóng và chính xác. Ví dụ, luật sư có thể tìm kiếm văn bản pháp luật qua công cụ tìm kiếm Goohle, Công báo: http://congbao.chinhphu.vn/, trang dữ liệu văn bản pháp luật của Quốc hội: http://vietlaw.gov.vn, của Chính phủ: http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban , hệ thống văn bản pháp luật của Bộ tư pháp, các trang cung cấp văn bản pháp luật trực tuyến như http://Luatvietnam.vn, http://thuvienphapluat.vn ,… Việc sử dụng các văn bản pháp luật online giúp luật sư dễ dàng hệ thống hóa các văn bản pháp luật liên quan, tra cứu hiệu lực của văn bản,… Năm là, kỹ năng trả lời tư vấn. Luật sư có thể trả lời tư vấn bằng nhiều hình thức: trực tiếp bằng lời nói, qua điện thoại, qua email hoặc văn bản chính thức có ký tên của luật sư, có đóng dấu của tổ chức hành nghề luật sư. Dù trả lời dưới hình thức nào, việc trả lời tư vấn phải đảm bảo tính logíc, súc tích, chính xác, ngôn ngữ thích hợp, lịch sự, văn phòng rõ ràng, dễ hiểu; trả lời đúng hẹn. Trong trường hợp trả lời bằng văn bản, luật sư cần phải tuyệt đối cẩn trọng về nội dung tư vấn. Trả lời tư vấn bằng văn bản, luật sư phải chú trọng kỹ thuật trình bày văn bản, đảm bảo tính chuyên nghiệp, phong cách của luật sư và tính cân đối, hài hòa của văn bản. Để soạn thảo tốt văn bản tra lời tư vấn, ngoài việc luật sư am hiểu pháp luật, chuẩn bị kỹ trước khi viết, xác định đối tượng nhận văn bản tư vấn, xác định nội dung viết, luật sư còn phải có những kỹ năng bổ trợ như kỹ năng soạn thảo văn bản, kỹ năng tin học văn phòng. Trong thời đại ngày nay luật sư cần phải đánh máy thư trả lời tư vấn, sử dụng phần mềm tin học văn phòng (Microsoft Word) một cách thành thạo để định dạng, trình bày văn bản đẹp và chuyên nghiệp. Ngoài ra, luật sư còn phải sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt đúng (chính tả, ngữ pháp), chuẩn xác, trong sáng. Trong quá trình soạn thảo thư trả lời tư vấn luật sư cần lựa chọn từ ngữ, cân nhắc thật kỹ cách dùng từ để sử dụng những từ ngữ thật “đắt”, có giá trị thuyết phục cao. Thuật ngữ pháp lý phải sử dụng chính xác, văn phong pháp lý phải sử dụng thích hợp. Đối với thư trả lời tư vấn bằng tiếng nước ngoài, chủ yếu là tiếng Anh, thì phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản trong trình bày văn bản tiếng Anh pháp lý (Legal English), đảm bảo đúng ngữ pháp. Kiều Anh Vũ(Trích Tiểu luận môn học Kỹ năng tư vấn pháp luậtLớp Đào tạo nghiệp vụ Luật sư tại Học viện tư pháp – năm 2012) ______________________________________ [1] Khoản 1 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005. [2] Khoản 2 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005. [3] Khoản 1 Điều 7 Luật Doanh nghiệp 2005. [4] Học viện Tư pháp, Phan Chí Hiêu, Nguyễn Thị Hằng Nga (chủ biên), Giáo trình Kỹ năng tư vấn pháp luật, 2012, Nxb. Công an nhân dân, trang 169.Chuyên Đề 2 Một Số Vấn Đề Du Lịch Thế Giới
Một số vấn đề giao lưu văn hoá Việt Nam với thế giới trong thời kỳ hội nhập