Những Câu Thơ Phật Pháp Hay

Những Câu Thơ Phật Pháp Hay

Nhắc đến thơ ca thì không thể không kể đến đất nước Trung Quốc. Những câu thơ hay bằng tiếng Trung hàm chứa nhiều ý nghĩa giúp bạn cảm nhận được từng cung bậc cảm xúc hay những khó khăn trong cuộc sống. Cùng theo dõi bài viết và tìm hiểu kỹ nhé!

Nhắc đến thơ ca thì không thể không kể đến đất nước Trung Quốc. Những câu thơ hay bằng tiếng Trung hàm chứa nhiều ý nghĩa giúp bạn cảm nhận được từng cung bậc cảm xúc hay những khó khăn trong cuộc sống. Cùng theo dõi bài viết và tìm hiểu kỹ nhé!

野老歌 (Yě lǎo gē) / Dã Lão Ca (Tạm dịch: Bài ca về lão nông dân)

Bài thơ với nội dung kể về một lão nông chịu áp lực nặng nề của sưu cao, thuế má, cuối cùng sống cuộc đời chỉ dựa vào hái quả ăn no, phơi bày cuộc sống nông dân của người nông dân dưới sự bóc lột của tô thuế trong khi giới doanh nhân giàu có lại sống phung phí xa hoa. Vạch trần tội ác của những thói hung hãn, hiếu chiến của giai cấp thống trị, đồng thời phản ánh chân thực thực chất của đời sống xã hội ngày xưa.

Tác giả: Trương Tịch (張籍 – Zhāng Jí), Thời gian Trung Đường (766-827).

老农家贫在山住,耕种山田三四亩。 Lǎo nóngjiā pín zài shān zhù, gēngzhòng shāntián sānsì mǔ. 苗疏税多不得食,输入官仓化为土。 Miáo shū shuì duō bùdé shí, shūrù guān cāng huà wéi tǔ. 岁暮锄犁傍空室,呼儿登山收橡实。 Suìmù chú lí bàng kōng shì, hū er dēngshān shōu xiàng shí. 西江贾客珠百斛,船中养犬长食肉。 Xījiāng jiǎ kè zhū bǎi hú, chuán zhōng yǎng quǎn zhǎng shíròu.

Lão nông gia bần tại sơn trú, Canh chủng sơn điền tam tứ mẫu. Miêu sơ thuế đa bất đắc thực, Thâu nhập quan thương hoá vi thổ. Tuế mộ sừ lê bàng không thất, Hô nhi đăng sơn thu tượng thực. Tây Giang cổ khách châu bách hộc, Thuyền trung dưỡng khuyển trường thực nhục.

Ông lão nhà nghèo ở trong núi, Cày cấy đất núi được ba bốn mẫu. Lúa ít đóng thuế nhiều nên không có lúa để ăn, Gom về kho quan để mốc thành đất. Cuối năm, cày bừa để dựa góc nhà trống không, Ông kêu con cháu lên núi hái hạt dẻ rừng về ăn. Nhà buôn ở Tây Giang kho báu có cả trăm hộc, Chó nuôi trên thương thuyền ngày nào cũng có thịt ăn.

Ông lão nghèo nhà trong vùng núi Cày cấy ba bốn mẫu đất hoang Thuế nhiều không lúa để ăn Gom về để mục kho quan dư thừa Đến cuối năm cày bừa dựa vách Hạt dẻ rừng tìm cách thay cơm Nhà buôn châu báu cả trăm Trên thuyền chó có thịt ăn hàng ngày. (Nguồn: Thivien.net)

关雎 (Guān jū) / Quan thư: Thuộc Thư Kinh – bộ thơ ca đầu tiên của Trung Quốc)

Quan Thư là một bản tình ca miêu tả tình yêu nam nữ. Với lòi thơ đẹp, sử dụng âm đôi và lặp từ tốt, làm tăng vẻ đẹp âm vị của bài thơ và sự sinh động của văn nhân vật và từ tượng thanh.

关关雎鸠、 Guān guān jū jiū, 在河之洲。 Zài hé zhī zhōu. 窈窕淑女、 Yǎotiǎo shūnǚ, 君子好逑。 Jūnzǐ hǎo qiú.

Quan quan thư cưu, Tại hà chi châu. Yểu điệu thục nữ, Quân tử hảo cầu.

Đôi chim thư cưu hót hoạ nghe quan quan, Ở trên cồn bên sông. Người thục nữ u nhàn, Phải là lứa tốt của bậc quân tử (vua).

Chim thư cưu họa tiếng Hót trên cồn bãi sông Như cô gái dịu hiền Sánh đẹp đôi quân tử. (Hoàng Nguyên Chương dịch)

白头吟 (Bái tóu yín) / Bạch Đầu Ngâm (Tạm dịch: Khúc ngâm đầu bạc)

Bài thơ này là một mốt tình buồn giữa Tư Mã Tương Như và Trác Văn Quân thời Tây Hán. Một chuyện tình vượt qua bao rào cản nhưng lại có cái kết cục thảm khốc đến bi thương.

Tác giả: Trác Văn Quân (卓文君 – Zhuō Wén Jūn), thời Tây Hán.

皑如山上雪, Ái rúshān shàng xuě, 皎若云间月。 Jiǎo ruò yún jiān yuè. 闻君有两意, Wén jūn yǒu liǎng yì, 故来相决绝。 Gù lái xiāng jué jué. 今日斗酒会, Jīnrì dǒujiǔ huì, 明旦沟水头。 Míng dàn gōu shuǐtóu. 躞蹀御沟上, Xiè dié yù gōu shàng, 沟水东西流。 Gōu shuǐ dōngxī liú.

Ngai như sơn thượng tuyết, Kiểu nhược vân gian nguyệt. Văn quân hữu lưỡng ý, Cố lai tương quyết tuyệt. Kim nhật đấu tửu hội, Minh đán câu thủy đầu. Tiệp điệp ngự câu thượng, Câu thủy đông tây lưu.

Trắng như tuyết trên núi, Sáng như trăng ở trong mây. Nghe lòng chàng có hai ý, Nên thiếp quyết cắt đứt. Ngày hôm nay nâng chén sum vầy, Sớm mai đã đưa tiễn nhau ở bên sông. Đi lững thững trên dòng nước, Nước cứ chảy xuôi mãi từ đông về tây (mà không quay về).

Trắng như tuyết trên núi, Sáng tựa trăng giữa mây. Nghe lòng chàng hai ý, Thiếp đành đoạn tình này. Hôm nay chén sum họp, Đầu sông tiễn sớm mai. Lững thững theo dòng nước, Nước mãi chảy đông tây. (Nguồn: Thivien.net)

卜算子 (Bosuànzi) / Bốc Toán Tử

Bốc Toán Tử là bài thơ nói về chuyện tình một đôi nam nữ, tình yêu thương vô bờ bến, cùng uống chung nước một dòng sông.

Tác giả: Lý Chi Nghi (李之儀 – Lǐ Zhī Yí)

我住长江头, Wǒ zhù chángjiāng tóu, 君住长江尾。 Jūn zhù chángjiāng wěi. 日日思君不见君, Rì rì sī jūn bùjiàn jūn, 共饮长江水。 Gòng yǐn chángjiāng shuǐ.

此水几时休? Cǐ shuǐ jǐshí xiū? 此恨何时已? Cǐ hèn héshí yǐ? 只愿君心似我心, Zhǐ yuàn jūn xīn sì wǒ xīn, 定不负相思意。 Dìng bù fù xiāngsī yì.

Ngã trú Trường Giang đầu, Quân trú Trường Giang vĩ. Nhật nhật tư quân bất kiến quân, Cộng ẩm Trường Giang thủy.

Thử thủy kỷ thời hưu? Thử hận hà thời dĩ? Chỉ nguyện quân tâm tự ngã tâm, Định bất phụ tương tư ý.

Thiếp ở đầu Trường Giang, Chàng ở cuối Trường Giang. Ngày ngày nhớ chàng chẳng thấy chàng, Cùng uống nước Trường Giang.

Dòng sông này bao giờ ngừng trôi? Nỗi hận này bao giờ hết? Chỉ mong lòng chàng như lòng thiếp, Nhất định không phụ nỗi niềm nhớ nhau.

Nhà thiếp ở đầu sông, Nhà chàng ở phía cuối. Dòng nước Trường Giang cùng uống chung, Vắng chàng mong sớm tối.

Nước nọ mấy khi ngừng, Hận này bao thuở vợi. Những mong ý thiếp giống lòng chàng, Mối tình quyết không thay đổi. (Nguồn: Tống từ, Nguyễn Xuân Tảo, NXB Văn học, 1999)

XEM NGAY: Phương pháp học tiếng Trung sơ cấp hiệu quả, nhớ lâu.

玉楼春-春恨 / Ngọc Lâu Xuân – Xuân Hận

Thơ:玉楼春-春恨 绿杨芳草长亭路, 年少抛人容易去. 楼头残梦五更钟, 花底离愁三月雨.

无情不似多情苦, 一寸还成千万缕. 天涯地角有穷时, 只有相思无尽处.

Phiên âm:Yùlóu chūn-chūn hènlǜ yáng fāng cǎo chángtíng lù,niánshào pāo rén róngyì qù.Lóu tóu cán mèng wǔ gēng zhōng,huā dǐ líchóu sān yuè yǔ.

Wúqíng bù shì duōqíng kǔ,yīcùn hái chéng qiān wàn lǚ.Tiānyá de jiǎo yǒu qióng shí,zhǐyǒu xiāngsī wújìn chù.

Dịch nghĩa:Liễu xanh cỏ ngát hương ngoài lộ Tuổi trẻ ra đi đâu có khó Trên lầu trằn trọc suốt năm canh Ly biệt tháng ba hoa ướt rũ

Vô tình nào khổ tựa đa tình Một tấc tơ lòng muôn vạn mớ Chân trời mặt đất còn chia ngăn Chỉ có nhớ nhau không hạn chỗ

Với những cây thơ hay bằng tiếng Trung trong bài viết, Cao đẳng Quốc Tế Sài Gòn hi vọng các bạn đã cảm nhận được nét đẹp trong từng lời thơ. Chúc các bạn học tốt tiếng Trung!

Những câu thơ hay bằng tiếng Trung tuy ngắn gọn nhưng lại hàm chứa rất nhiều ý nghĩa thâm sâu trong đó. Thơ ca ở Trung Quốc được phát triển rất sớm, cho đến hiện nay vẫn còn lưu truyền lại rất nhiều những tác phẩm hay và kinh điển của các tác giả nổi tiếng. Nhắc đến thơ ca thì không thể không kể đến đất nước Trung Quốc. Dưới đây là một số thơ hay Trung Quốc mà trung tâm Hoa Ngữ Tầm Nhìn Việt muốn giới thiệu đến bạn.

Xem thêm: Khóa học tiếng Trung hiệu quả với giáo trình chất lượng phù hợp với mọi trình độ của học viên.

Nội dung chính: 1. Top 8 bài thơ hay về tình yêu bằng tiếng Trung 2. Thơ Trung Quốc ý nghĩa hay về cuộc sống 3. Tổng hợp bài thơ nổi tiếng, tiêu biểu Trung Quốc 4. Những câu thơ đối hay bằng tiếng Trung

观田家 (Guān tiánjiā) / Quan Điền Gia (Tạm dịch: Quan sát nhà nông)

Đây là bài thơ 5 chữ mô tả cuộc sống của một gia đình nông dân thời xưa. Lời thơ giản dị, ít chạm khắc nhưng lại phơi bày được nỗi khổ nhân dân thời bấy giờ.

Tác giả: Vi Ứng Vật (韋應物 – Wéi Yìng Wù)

微雨众卉新, Wēi yǔ zhòng huì xīn, 一雷惊蛰始。 Yī léi jīngzhé shǐ. 田家几日闲? Tiánjiā jǐ rì xián? 耕种从此始。 Gēngzhòng cóngcǐ shǐ. 丁壮俱在野, Dīng zhuàng jù zàiyě, 场圃亦就理。 Chǎng pǔ yì jiù lǐ. 归来景常晏, Guīlái jǐng cháng yàn, 饮犊西涧水。 Yǐn dú xī jiàn shuǐ. 饥劬不自苦, Jī qú bù zì kǔ, 膏泽且为喜。 Gāo zé qiě wèi xǐ. 仓廪无宿储, Cānglǐn wú sù chǔ, 徭役犹未已。 Yáoyì yóu wèi yǐ. 方惭不耕者, Fāng cán bù gēng zhě, 禄食出闾里。 Lù shí chū lǘlǐ.

Vi vũ chúng huỷ tân, Nhất lôi kinh trập thuỷ. Điền gia kỷ nhật nhàn? Canh chủng tòng thử thuỷ. Đinh tráng câu tại dã, Trường phố diệc tựu lý. Qui lai cảnh thường yến, Ẩm độc tây giản thuỷ. Cơ cù bất tự khổ, Cao trạch thả vi hỉ. Thương lẫm vô túc trừ, Dao dịch do vị dĩ. Phương tàm bất canh giả, Lộc thực xuất lư lý.

Mưa nhỏ làm mọi loài cỏ nảy mầm mới, Một cơn sấm chớp bắt đầu hiện tượng kinh trập. Nhà nông được bao nhiêu ngày nhàn rỗi rồi? Nay bắt đầu cày đất và gieo hạt theo ngay hiện tượng bắt đầu này. Người lớn khỏe mạnh đều ra đồng, Ruộng vườn đều được sửa sang. Thường trở về nhà trễ khi nắng sắp tắt, Bê, nghé uống nước nơi suối phía tây. Không thấy khổ khi đói bụng hay mệt nhọc, Chịu mưa ướt cho đất được thấm nhuần là điều vui mừng. Trong vựa, đụn chẳng có thóc lúa gì cả, Làm để trả thuế cho quan và tô cho chủ đất còn chưa đủ. Thấy điều này mới thấy hổ thẹn cho kẻ không làm ruộng như ta, Bổng lộc và cái ăn đều do làng xã cung ứng.

Vừa mưa nhỏ cỏ mọc mầm ngay, Sấm chớp bắt đầu kinh trập đây. Ngày rỗi nhà nông đâu được mấy, Đúng thời cày cấy giống liền tay. Tráng trai khỏe mạnh ra đồng cả, Vườn ruộng chăm lo cứ miệt mài. Thường trở về nhà khi nắng tắt, Nghé bê uống nước suối bờ tây. Nhọc nhằn đói khát nào đâu quản, Mưa ướt, đất nhuần cảm thấy vui. Trong vựa đụn không còn thóc lúa, Thuế tô chẳng đủ, khó khăn hoài. Thẹn mình không mó việc điền tang, Bổng lộc, miếng cơm nợ xóm làng. (Nguồn: Thivien.net)